Thoát vị đĩa đệm là tình trạng bao xơ bên ngoài của đĩa đệm bị rách hoặc đứt do xơ hóa, khiến cho nhân nhầy đĩa đệm cột sống bị thoát ra ngoài, chèn ép vào ống sống hoặc các rễ dây thần kinh, gây ra những cơn đau nhức dai dẳng. Thoát vị đĩa đệm có 4 giai đoạn với các triệu chứng điển hình, gây khó khăn trong sinh hoạt thường ngày và có thể gây liệt nếu bệnh trở nặng.
Hãy cùng Traulen tìm hiểu về các cấp độ và cách điều trị của căn bệnh xương khớp phổ biến này nhé!
Thoát vị đĩa đệm là gì?
Thoát vị đĩa đệm là tình trạng lớp bao xơ bên ngoài của đĩa đệm khi lão hóa hoặc thoái hóa sẽ rách ra, khối nhân nhày thoát ra ngoài chèn ép vào tủy sống hoặc rễ thần kinh gây ra những cơn đau dữ dội. Tùy vị trí cột sống bị thoát vị mà tên gọi của bệnh cũng khác nhau, thông thường có hai dạng chính là thoát vị đĩa đệm cột sống lưng và cổ
Thoát vị đĩa đệm có nguy hiểm không?
Thoát vị càng nặng càng tiềm ẩn nhiều biến chứng nghiêm trọng, dưới đây là một số vấn đề bạn cần lưu ý:
- Ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt: Khó khăn trong việc cúi, xoay người, vươn người lấy đồ trên cao, đau buốt khi làm việc nặng, thậm chí đau sau mỗi cơn ho…
- Rối loạn tiểu tiện: Bí tiểu, tiểu không tự chủ, hệ lụy của việc các dây thần kinh thắt lưng bị chèn ép.
- Đau thần kinh tọa: Cơn đau buốt dọc đường đi của dây thần kinh tọa kéo từ thắt lưng lan qua mông xuống chân.
- Teo cơ: Các tổ chức thần kinh các chi chân và tay bị chèn ép, máu không lưu thông đến nuôi cơ khiến cơ chân tay bị teo đi, khó khăn trong việc đi lại.
- Rối loạn cảm giác: Tê bì chân tay quá mức khiến người bệnh mất cảm giác linh hoạt chân tay, thậm chí không cảm nhận được nóng lạnh.
- Liệt: Thường thì nếu biến chứng teo chân không được can thiệp sớm, việc liệt chân là điều hoàn toàn có thể
Dấu hiệu, triệu chứng của thoát vị đĩa đệm
Đối với thoát vị đĩa đệm cột sống lưng, bệnh nhân sẽ cảm thấy chân tay tê bì, đau lưng, đau thần kinh liên sườn, đau dọc theo dây thần kinh tọa, đi lại khó khăn thậm chí teo chân…
Còn biểu hiện của thoát vị đĩa đệm cổ lại đặc trưng với cơn đau đốt sống cổ, cổ kém linh hoạt, cứng cổ vào buổi sáng, đau vai gáy, tê bì cánh tay…
Một số triệu chứng thoát vị đĩa đệm điển hình bao gồm:
- Đau nhức tay hoặc chân: Bệnh nhân có những cơn đau đột ngột ở vùng cổ, thắt lưng, vai gáy, cổ và chân tay khi mắc bệnh, sau đó lan ra vùng vai gáy, chân tay. Tính chất đau có thể âm ỉ vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng hoặc rất dữ dội, đau nặng hơn khi vận động, đi lại, giảm đi khi nghỉ một chỗ.
- Triệu chứng tê bì tay chân: nhân nhầy của đĩa đệm thoát ra ngoài sẽ chèn ép rễ thần kinh gây đau nhức, tê bì vùng thắt lưng, vùng cổ sau đó dần dần phát triển xuống mông, đùi, cẳng chân và gót chân. Lúc này người bệnh sẽ bị rối loạn cảm giác, luôn thấy mình như bị kiến bò trong người,…
- Yếu cơ, bại liệt: xuất hiện khi bệnh ở giai đoạn nặng, thường sau một thời gian dài mới phát hiện được. Giai đoạn này người bệnh khó có thể đi lại vận động, dần dần dẫn tới teo hai chân, teo cơ, liệt các chi phải ngồi xe lăn

Đau buốt nhói cột sống chính là dấu hiệu dễ nhận biết nhất của thoát vị đĩa đệm
Cũng có những trường hợp bệnh nhân thoát vị đĩa đệm tuy nhiên không có triệu chứng gì. Theo đó, bệnh nhân cần tới bệnh viện và tham khảo ý kiến bác sĩ ngay khi có những biểu hiện sau:
- Đau, tê bì, yếu cơ ngày càng nặng, ảnh hướng nhiều đến sinh hoạt thường nhật
- Tình trạng són tiểu hoặc bí tiểu
- Tình trạng mất cảm giác tại các vùng gọi là “yên ngựa” trên cơ thể như bắp đùi trong, phía sau chân, vùng quanh hậu môn
Thoát vị đĩa đệm nếu không được điều trị sớm sẽ để lại những biến chứng nặng nề:
- Khi nhân nhầy chui vào trong ống sống, chèn ép rễ thần kinh, làm hẹp khoang sống sẽ khiến bệnh nhân có nguy cơ bị liệt nửa người hoặc bại liệt cả người.
- Hội chứng đuôi ngựa: rễ thần kinh vùng thắt lưng bị chèn ép, khiến việc đi đại tiện không kiểm soát.
- Không vận động lâu ngày sẽ khiến cơ trở nên suy yếu, bị teo, các chi teo nhanh chóng, chân tay bé lại, khả năng đi lại, vận động giảm sút.
- Rối loạn cơ vòng: Khi rễ thần kinh bị tổn thương có thể gây ảnh hưởng đến cơ vòng đường tiểu: bí tiểu, sau đó lại đái dầm dề, nước tiểu chảy rỉ ra một cách thụ động
Các giai đoạn của bệnh thoát vị đĩa đệm
Thoát vị đĩa đệm phát triển theo 4 giai đoạn bao gồm: suy thoái đĩa đệm, phình đĩa đệm, thoát vị đĩa đệm và hư đĩa đệm (có nguy dẫn đến thoái hóa cột sống). Nhận biết triệu chứng bệnh từ sớm, chọn phương pháp điều trị phù hợp sẽ giúp bệnh nhân có cơ hội chữa khỏi hoàn toàn.
Giai đoạn I: Suy thoái đĩa đệm
Đây là giai đoạn đầu tiên của bệnh thoát vị đĩa đệm. Nhân nhầy bắt đầu biến dạng, xuất hiện chỗ đứt rách nhỏ phía sau bao xơ đĩa đệm.
Biểu hiện này chỉ được thấy trên phim chụp đĩa đệm, phim thường hoặc khám lâm sàng thì khó thấy. Ở giai đoạn này, các cơn đau chỉ xuất hiện thoáng qua nên người bệnh thường không để ý.
Giai đoạn II: Phình đĩa đệm
Tiến triển qua giai đoạn II của bệnh thoát vị đĩa đệm, nhân nhầy lúc này lồi về một phía. Bao xơ xuất hiện nhiều chỗ rạn, rách rõ rệt. Nhân nhầy chui qua khe hở của bao xơ thoát ra ngoài, hình thành khối thoát vị chèn ép rễ thần kinh. Lúc này, người bệnh đã cảm nhận được cơn đau rõ rệt, cảm giác như có kiến bò hoặc kim châm ở vùng bị tổn thương.
Giai đoạn III: Thoát vị đĩa đệm
Trong giai đoạn III, bao xơ của đĩa đệm bị đứt rách hoàn toàn, làm cho nhân nhầy và các tổ chức khác bên trong đĩa đệm bị thoát khỏi khoang đốt sống, chèn ép rễ thần kinh, khiến cho cơn đau lan ra các chi, ảnh hưởng tới khả năng vận động của người bệnh.
Ở giai đoạn này, các triệu chứng lâm sàng của bệnh thoát vị đĩa đệm có thể chia thành 3 mức độ:
- Kích thích rễ thần kinh
- Chèn ép rễ thần kinh, tủy vẫn còn một phần dẫn truyền thần kinh
- Mất dẫn truyền thần kinh
Ở giai đoạn III, bệnh nhân phải chịu các đau nhức với mật độ dày đặc, tê bì, chuột rút,… suy giảm khả năng vận động một cách rõ rệt.
Giai đoạn IV: Hư đĩa đệm
Giai đoạn IV là giai đoạn cực kì nguy hiểm cho bệnh nhân thoát vị đĩa đệm. Lúc này, đĩa đệm bị biến dạng và xơ hóa toàn bộ, bao xơ bị phá vỡ, rạn rách nặng. Nhân nhầy của khối thoát vị thoát ra ngoài và tách hoàn toàn khỏi đĩa đệm, gây tổn thương rễ thần kinh nặng, và khoang đốt sống bị giảm hẳn.
Ở giai đoạn IV, cơn đau hầu như không dứt. Người bệnh có thể đau nhiều khi ho, hắt hơi hoặc vận động mạnh. Tình trạng bệnh có thể dẫn tới nhiều biến chứng nguy hiểm như teo cơ, rối loạn cơ gây mất kiểm soát khi đại tiểu tiện, mất cảm giác nóng lạnh, thậm chí mất khả năng vận động.
Các phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm thường gặp
Ngoài vấn đề bệnh thoát vị đĩa đệm có nguy hiểm không thì việc trị liệu chính là mối quan tâm hàng đầu của người bệnh. Các phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm hiện nay bao gồm:
Dùng thuốc Tây
Các cơn đau của bệnh thoát vị đĩa đệm có thể được kiểm soát bằng các loại thuốc giảm đau, thuốc chống viêm …Tuy nhiên, thuốc giảm đau chỉ có tác dụng tức thời chứ không thể trị liệu bệnh hiệu quả. Nếu bệnh nhân lạm dụng thuốc quá nhiều có thể gây hại dạ dày, thận,…
Trị liệu thần kinh cột sống (Chiropractic)
Chiropractic là phương pháp trị liệu thần kinh cột sống không xâm lấn, các bác sĩ sẽ dùng kỹ thuật nắn chỉnh, đưa các đốt sống sai lệch về đúng vị trí, giải phóng sự chèn ép dây thần kinh. Từ đó, cột sống sẽ lấy lại đường cong sinh lý ban đầu, phục hồi khả năng vận động linh hoạt cho vùng khớp và giảm đau hiệu quả mà không cần can thiệp thuốc hay phẫu thuật..
Phương pháp nàyc được giới chuyên môn đánh giá cao vì giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của chứng thoát vị đĩa đệm.
Vật lý trị liệu, phục hồi chức năng
Xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu, sử dụng máy trị liệu và các bài tập là phương pháp được khá nhiều bệnh nhân áp dụng. Các bài tập vật lý trị liệu có tác dụng giảm đau, khôi phục các cơ bị co cứng và đẩy nhanh tốc độ làm lành của đĩa đệm. Với sự hỗ trợ của các máy móc, trang thiết bị hiện đại, việc điều trị thoát vị đĩa đệm cũng trở nên hiệu quả hơn.

Vật lý trị liệu không thể trị liệu khỏi hoàn toàn thoát vị đĩa đệm nếu không kết hợp dùng thuốc
Phẫu thuật
Khi thoát vị nặng gây biến chứng như bí đại tiểu tiện, liệt chi thì các bác sỹ sẽ khuyên bệnh nhân nên phẫu thuật. Tỷ lệ thành công của phương pháp này chỉ là 50/50 và cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro vì người bệnh có thể bị nhiễm trùng, viêm sau khi mổ…. Mặt khác, chi phí phẫu thuật tuy cao nhưng hiệu quả chỉ được 1-2 năm lại có thể tái phát bệnh.