Bệnh lao xương khớp là một bệnh do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra tại hệ thống xương khớp của cơ thể con người. Bên cạnh lao phổi, lao xương là một trong các bệnh lao ngoài phổi khá phổ biến, xếp sau lao màng phổi và lao bạch huyết.
Bệnh lao xương khớp nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời có thể gây ra biến chứng tàn phế, liệt. Vậy bệnh lao xương khớp có chữa khỏi được không và có những phương pháp điều trị nào? Cùng tìm hiểu qua bài viết của Traulen nhé!
Tổng quan về bệnh lao xương khớp
Lao xương khớp là một dạng bệnh lý nhiễm khuẩn, tác nhân gây bệnh là trực khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra. Vi khuẩn tấn công gây nhiễm khuẩn toàn bộ hệ thống xương của cơ thể hoặc một vài vị trí xương, thường gặp là xương cột sống, xương cổ, xương vùng chậu, xương ức, xương sườn, xương bàn tay hoặc bàn chân,…
Bệnh lao xương khớp là một bệnh toàn thân và có biểu hiện tổn thương lao khu trú ở xương. Lao xương khớp là bệnh lao thứ phát, thường do trực khuẩn lao từ phổi hoặc hạch, đi vào máu tới xương. Lao xương khớp thường xuất hiện ở các xương xốp như: thân đốt sống, xương tụ cốt bàn tay và bàn chân.
Bệnh lao xương khớp thường có mối liên hệ với suy giảm miễn dịch, khiến vi khuẩn dễ tấn công và tấn công nặng nề hơn vào cơ thể. Nếu lao xương khớp xảy ra ở người mắc bệnh suy giảm miễn dịch, cần điều trị tích cực kéo dài hơn, tránh biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Bệnh lao xương khớp thường xảy ra khi người bệnh bị nhiễm vi khuẩn lao và lan ra ngoài phổi
Nguyên nhân gây lao xương khớp
Trong mọi bệnh lý về lao, thủ phạm gây bệnh không ai khác chính là trực khuẩn lao có tên khoa học là Mycobacterium tuberculosis tồn tại trong môi trường hoặc từ người bệnh phát tán ra ngoài lây nhiễm cho cộng đồng.
Hầu hết bệnh nhân mắc lao xương khớp là bệnh thứ phát sau một bệnh lao nào đó, phổ biến là lao phổi. Sau đó, vi khuẩn gây lao mới xâm nhập đi theo đường bạch huyết hoặc đường máu tới các xương, gây ra bệnh lao xương.
Nếu hệ miễn dịch của cơ thể bị yếu không đủ sức chống lại vi khuẩn lao, khi vào đến phổi chúng sẽ khu trú, sinh sôi nảy nở ở đó. Tệ hơn, vi khuẩn lao sau khi làm tổn thương phổi, chúng có thể di chuyển theo đường máu và bạch huyết, gây bệnh ở những cơ quan khác (xương khớp, não, hệ sinh dục, hệ tiết niệu, mắt, tai, da,…).
Tại các bộ phận thuộc hệ xương khớp, vi khuẩn lao bắt đầu thiết lập “cuộc sống mới”, tạo nên những củ lao. Trung tâm củ lao là vùng hoại tử được bao bọc bởi các biểu mô, tế bào đơn nhân, tế bào khổng lồ. Những nơi chúng ưu tiên xâm lược đầu tiên đó là các xương lớn, xốp, đóng vai trò nâng đỡ trọng lượng cơ thể khiến cho khung nâng đỡ của cơ thể bị tàn phá và tổn thương nghiêm trọng.
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh lao xương khớp
- Người bệnh xuất hiện triệu chứng sốt dai dẳng, có thể từ sốt nhẹ đến sốt vừa, sốt về buổi chiều tối
- Người mệt mỏi, xanh xao, biếng ăn, sụt cân, hay bị đổ mồ hôi trộm
- Những vị trí xương khớp bị vi khuẩn xâm nhập sẽ có dấu hiệu sưng to, cứng tuy nhiên không đỏ, không nóng, không viêm
- Các ổ áp xe hình thành do lao xương thường có mủ bên trong, bị hoại tử bã đậu, viêm tủy xương, thân xương chứa các mảnh xương chết. Khi khám lâm sàng sẽ phát hiện ra nốt bùng nhùng bên cạnh khớp. Nếu ổ áp xe vỡ ra sẽ để lại lỗ dò
- Đau xương, cơ thể vận động khó khăn. Tuỳ thuộc vào vị trí bị lao xương mà bệnh nhân sẽ cảm thấy đau ở vị trí đó, ví dụ: nếu bị lao xương háng thì đau háng, không thể co duỗi chân bình thường, lao xương cột sống thì không thể ngửa người ra hoặc cúi người xuống,…
- Các biểu hiện khác: gù – vẹo – gấp khúc cột sống, teo các cơ vận động, đi lệch người hoặc tập tễnh, liệt, tàn phế, ổ áp xe chèn ép tủy sống gây rối loạn cơ tròn

Lao xương khớp là một bệnh lý nguy hiểm, gây nhiều hệ luỵ nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời
Các biến chứng của bệnh lao xương khớp
- Xương bị biến dạng: Xẹp đốt sống, gù nhọn, gây chèn ép rễ thần kinh và tủy sống
- Biến chứng thần kinh: Người bệnh bị liệt 2 chi dưới hoặc cả tứ chi
- Tàn phế do phải cắt cụt chi: Khi lao xương ở mức độ nặng, không được chữa trị sớm sẽ gây nên những thương tổn không thể phục hồi, lúc này bệnh nhân buộc phải bị cắt cụt các chi
- Bệnh nhân bị lao xương khớp bị hạn chế vận động, cuộc sống sinh hoạt gặp rất nhiều khó khăn
- Bệnh nhân bị teo cơ vận động khớp
- Áp xe lạnh gây chèn ép tuỷ sống còn dẫn đến liệt cơ tròn
- Lao lan rộng: Nếu không được ngăn chặn kịp thời, vi khuẩn lao không chỉ gây nhiễm trùng ở hệ xương khớp mà còn lan sang tấn công các cơ quan khác như mắt, tai, da, màng não, hệ sinh dục, hệ bài tiết,… đe doạ đến tính mạng của người bệnh.
Đối tượng có nguy cơ cao mắc lao xương khớp
- Người từ 20 – 40 tuổi;
- Trẻ em nhỏ chưa được tiêm phòng vắc xin lao BCG;
- Tiếp xúc gần và thường xuyên với những bệnh nhân bị lao phổi hoặc với các nguồn lây bệnh lao khác;
- Đã từng mắc bệnh lao trước đó như: Lao phổi, lao hạch, lao sơ nhiễm, lao tiết niệu,…;
- Mắc các bệnh lý nền như: Suy giảm miễn dịch, HIV/AIDS, tiểu đường, suy dinh dưỡng, viêm loét dạ dày – tá tràng,…
Phòng ngừa bệnh lao xương khớp
- Cập nhật kiến thức y khoa cần thiết về bệnh lao nói chung và bệnh lao xương khớp nói riêng
- Cho trẻ nhỏ đi tiêm phòng vắc xin BCG
- Chủ động cách ly, phòng tránh bệnh lao từ những người bị bệnh lao
- Nếu tiếp xúc thường xuyên với bệnh nhân lao cần phải thực hiện các biện pháp tầm soát lao định kỳ bằng các phương pháp xét nghiệm
- Đối với những người bị mắc lao xương khớp và cả những loại lao khác, cần chủ động chuẩn bị các biện pháp phòng ngừa vi khuẩn lao phát tán ra bên ngoài, không tụ tập nơi đông người tránh lây cho cộng đồng và tuân thủ chặt chẽ theo phác đồ điều trị của bác sĩ
- Có lối sống cũng như chế độ ăn uống lành mạnh: không hút thuốc lá, không sử dụng chất kích thích và lạm dụng đồ uống có cồn như rượu, bia, cà phê. Tập tành thói quen ngủ đủ giấc, đúng giờ, ăn đủ bữa và đầy đủ chất dinh dưỡng thiết yếu để đảm bảo một cơ thể khỏe mạnh, tăng sức đề kháng chống lại vi khuẩn có hại. Hạn chế đến những nơi đông người để giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn lao
Các biện pháp điều trị lao xương khớp
Hoá trị bằng cách dùng thuốc
Đây là biện pháp điều trị dựa trên nguyên nhân gây bệnh. Phác đồ điều trị bao gồm kết hợp các loại thuốc với nhau trong thời gian từ 6 – 18 tháng. Tại thời gian đầu, bệnh nhân sẽ được theo dõi, giám sát tại nhà để đảm bảo tuân thủ theo phác đồ điều trị, đồng thời tránh lây lan vi khuẩn lao ra ngoài cộng đồng. Phần lớn người bệnh đều đá ứng với biện pháp hoá trị nhưng cũng có những trường hợp khác thuốc, yêu cầu cần thay thế bằng phương pháp điều trị khác hiệu quả hơn.
Nghỉ ngơi
Khi bắt đầu áp dụng điều trị, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi lại sức từ 4 – 5 tuần. Khuyến khích người bệnh nên nằm giường cứng để mang lại hiệu quả cao hơn so với nằm giường nệm.
Vật lý trị liệu
Bệnh nhân có thể tập vận động dần dần để tránh bị cứng khớp sau thời gian 4 – 5 tuần nghỉ ngơi tương đối.
Thực hiện phẫu thuật
Chỉ định cho những trường hợp không đáp ứng với điều trị nội khoa và tập phục hồi chức năng, hoặc bệnh nhân phải chịu biến chứng như biến dạng xương khớp, xuất hiện ổ áp xe lớn, vận động bị hạn chế nhiều,… ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và công việc của người bệnh.